Ông Lê Trương Hải Hiếu Là Con Ai

Ông Lê Trương Hải Hiếu Là Con Ai

Mở rộng điều tra vụ án xảy ra tại Bộ Ngoại giao, Hà Nội và các tỉnh, thành, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an khởi tố bị can Nguyễn Thanh Hải tội "Nhận hối lộ".

Mở rộng điều tra vụ án xảy ra tại Bộ Ngoại giao, Hà Nội và các tỉnh, thành, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an khởi tố bị can Nguyễn Thanh Hải tội "Nhận hối lộ".

Một số thông tin khác về Ông Hoàng Mười

Trong truyền thống dân gian, Ông Hoàng Mười cùng với Ông Hoàng Bảy là hai vị thần linh luôn được tôn vinh và về ngự đồng. Ông Hoàng Mười được xem là người được Vua Mẫu ủy thác chấm lính và nhận đồng, khác biệt với Ông Hoàng Bảy, người thường được biết đến với phong thái hào hoa và tài năng văn chương.

Khi về ngự đồng, Ông Hoàng Mười thường mặc áo vàng, thường có hình rồng uốn lượn thành chữ thọ, đầu đội khăn xếp và thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông thường thực hiện các hành động khác nhau như múa cờ xông pha chinh chiến, sử dụng quạt như một cây bút để viết văn thơ, hoặc cầm dải lụa vàng như một cách biểu hiện việc hỗ trợ người dân trong lao động hàng ngày, được coi là cách kéo tài lộc về cho bản đền. Như Ông Hoàng Bảy, ông cũng thường cầm hèo lên ngựa để chấm lính, và người dân thường dùng tờ tiền 10.000₫ màu đỏ vàng làm lá cờ, cài lên đầu ông để tôn vinh ông.

Khi ông về ngự đồng, thường có sự dâng đại chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, và thuốc lá, là những sản vật đặc trưng của quê hương ông. Ngoài ra, ông cũng thường cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ mượt mà và êm tai để làm cho không khí vui tươi và ấm áp hơn.

Căn Ông Hoàng Mười là một khái niệm trong tâm linh dân gian, đồng nghĩa với việc một người được coi là có duyên với Ông Hoàng Mười. Theo quan điểm này, mỗi người có số mệnh và số phận riêng được xác định từ trước bởi vận mệnh và nghiệp duyên từ kiếp trước. Những người được coi là có căn duyên với Ông Hoàng Mười thường được xem như là những người đã có một mối liên kết đặc biệt với thần linh này từ kiếp trước, và được chọn để trả ơn ân duyên đã nhận được từ Thần.

Theo quan điểm này, người có căn duyên sẽ dần dần nhận biết được dấu hiệu và nguyên tắc dẫn đường từ Thần Ông Hoàng Mười, hướng dẫn họ tìm đến chân gốc của số mệnh và nghiệp duyên của mình. Điều này thường được xem như là một hành trình tìm kiếm và khám phá bản chất sâu thẳm của bản mệnh, và sẽ đến một thời điểm nào đó trong cuộc đời, họ sẽ khởi duyên được và được dẫn đường bởi Thần Ông Hoàng Mười để thực hiện mục tiêu và báo đáp ân duyên đã nhận được.

Có một số dấu hiệu có thể giúp nhận biết xem một người có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười hay không, và dưới đây là một số điểm cơ bản:

Nhưng quan trọng nhất, mỗi người có thể có những cảm nhận khác nhau về việc có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười, dựa vào những trải nghiệm và quan hệ cá nhân của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là giữ vững truyền thống tôn trọng và biết ơn người đã gieo mầm lòng từ bi và lòng nhân ái.

Các đền thờ Ông Hoàng Mười được tôn vinh khắp nơi từ Bắc đến Nam, nhưng ba địa điểm nổi tiếng nhất là Đền Chợ Củi ở Hà Tĩnh, Mỏ Hạc Linh Từ ở Nghệ An và Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh.

Đền Chợ Củi, hay còn gọi là đền Hoàng Mười, nằm tại xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nơi đây hằng năm thu hút nhiều du khách đến thăm và thực hiện lễ thờ cúng, hy vọng nhận được sự phúc lộc và bình an.

Đây là một ngôi đền có niên đại từ năm 1634, xây dựng từ thời hậu Lê tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sau nhiều lần tu bổ, đền hiện nay gồm ba toà chính: Thượng điện, Trung điện và Hạ điện.

Mộ đức thánh Hoàng Mười cũng nằm trong khu di tích Mỏ Hạc Linh Từ ở xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Theo truyền thống, đây được cho là nơi an nghỉ của ông Nguyễn Duy Lạc, một hiện thân của Thánh Hoàng Mười.

Ngày 23/11/2014 tại phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười đã được khánh thành. Đền này được xây dựng từ thời kỳ Nhà Lý vào khoảng năm 1060, tọa lạc tại ngã ba giữa Kênh nhà Lê, Sông La và Sông Lam, gần vùng ngoài đê La Giang.

Chúng ta đã cùng nhau khám phá về Quan Hoàng Mười qua hàng loạt thông tin và thần thoại đặc sắc.

Hy vọng rằng những kiến thức này đã giúp bạn hiểu rõ hơn về vai trò, tầm quan trọng và huyền thoại iên quan đến Quan Hoàng Mười. Dù là trong lịch sử hay trong tâm trí của người dân, nhân vật này luôn gắn liền với những câu chuyện huyền bí và sức mạnh tinh thần.

Hãy tiếp tục khám phá và truyền bá những giá trị văn hóa truyền thống này để giữ gìn và phát triển di sản văn hóa của dân tộc. Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng chúng tôi trong hành trình khám phá về Quan Hoàng Mười!

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sinh ra tại huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên nhưng phần lớn cuộc đời làm thuốc của ông gắn bó với quê ngoại ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông đã để lại di sản vô giá cho nền y học, văn học, văn hóa dân tộc, đặc biệt là trong lĩnh vực y học cổ truyền.

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (còn có tên là Lê Hữu Huân) sinh năm Giáp Thìn 1724 tại làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã để lại di sản vô giá cho nền y học, văn học, văn hóa dân tộc

Dòng tộc Lê Hữu nổi tiếng với truyền thống khoa bảng, nhiều người đỗ đạt làm quan dưới thời Hậu Lê; trong đó thân phụ ông là Lê Hữu Mưu (1675-1739), đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Hữu thị lang Bộ Công, Nhập thị kinh diên, được phong tước Phu Đình Bá, sau khi mất được truy tặng hàm Thượng thư. Thân mẫu là Bùi Thị Thưởng, là vợ thứ, con gái tướng công Bùi Diệm Đăng, quê xứ Bàu Thượng, xã Tình Diệm (nay là thôn Bảo Thượng, xã Quang Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con út trong gia đình có 7 anh em nên thường được gọi là cậu Chiêu Bảy.

Thuở nhỏ, Lê Hữu Trác nổi tiếng học giỏi, năm 16 tuổi thân phụ qua đời nên ông phải rời Kinh thành về quê chịu tang cha và trông nom gia đình. Tại quê nhà, Lê Hữu Trác chăm lo đèn sách để tiến thân bằng khoa cử, nhưng chỉ thi đến bậc Sinh đồ rồi nghỉ. Bấy giờ, xã hội rối ren, ông bắt đầu nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ và gia nhập quân đội. Tuy nhiên, sau mấy năm chinh chiến, thấy cảnh binh đao gây ra nhiều đau thương cho người dân nên ông muốn rời khỏi quân đội, nhiều lần từ chối sự đề bạt thăng thưởng.

Năm 1746, sau khi người anh cả mất, Lê Hữu Trác viện cớ xin rời khỏi quân ngũ để chăm mẹ già và các cháu nhỏ mồ côi ở thôn Bàu Thượng, xã Tình Diệm (nay là xã Quang Diệm, Hương Sơn).

Do đau yếu triền miên, Lê Hữu Trác đến nhà thầy thuốc Trần Độc ở Thành Sơn chữa bệnh(1). Trong dịp này, ông được đọc sách “Phùng Thị cẩm nang” của Phùng Triệu Trương - danh y dưới triều nhà Thanh (Trung Hoa). Qua bàn luận, nhận thấy Lê Hữu Trác là người am hiểu lý luận âm dương của nghề thuốc, thầy Trần Độc đã truyền dạy nghề thuốc cho ông. Từ đó, Lê Hữu Trác chuyên tâm học nghề làm thuốc, chữa bệnh cứu người.

Năm 1758, Lê Hữu Trác lên kinh thành Thăng Long nhằm trau dồi nghề nghiệp nhưng không tìm được thầy giỏi nên quay về đọc sách, nghiên cứu y dược. Trong thời gian này, ông tiếp tục nghiên cứu, hiểu được dịch lý, âm dương trong kinh điển y học “Phùng Thị cẩm nang”. Nhờ đó, ông đã chữa khỏi bệnh cho 2 người con gái của ông và bắt đầu chữa bệnh cho những người trong họ, trong làng. Ít năm sau, Lê Hữu Trác chính thức hành nghề thuốc, chữa bệnh, dạy học trò, nghiên cứu sách y học, trao đổi lý luận, biên soạn và hoàn thành cơ bản bộ sách “Lãn Ông tâm lĩnh” vào năm 1770.

Năm 1782, tiếng tăm thầy thuốc Hải Thượng Lãn Ông đã truyền tới kinh thành, chúa Trịnh triệu Lê Hữu Trác về kinh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Nhiều quan đại thần, danh sĩ tìm đến nhờ Lê Hữu Trác chữa bệnh, kê đơn thuốc và giao lưu thơ ca. Tuy các bài thuốc của ông có hiệu nghiệm nhưng do sự đố kỵ của các ngự y thời đó, cộng thêm bệnh tình của chúa và thế tử đều đã rất nặng nên ông không chắc chắn là chữa khỏi được. Vì vậy, Lê Hữu Trác đã tìm mọi cách để cáo lui, về quê. Trong chuyến đi này, Lê Hữu Trác đã viết cuốn “Thượng kinh ký sự”.

Trở về quê mẹ, Lê Hữu Trác tiếp tục hành nghề thuốc, biên soạn và hoàn thiện bộ sách “Lãn Ông tâm lĩnh”. Lê Hữu Trác mất vào ngày Rằm tháng Giêng năm Tân Hợi (1791).

Sau khi qua đời, các bài thuốc và sách của Lê Hữu Trác đều được lưu truyền, sử dụng rộng rãi; các di sản y học, văn học, y đức của ông được nhiều thế hệ học trò, các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao và học tập, noi theo. Với những công lao, cống hiến to lớn đối với nền y học Việt Nam và thế giới, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh là “Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2024-2025”.

(1) Trần Độc là người làng Trung Cần, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ông là người học rộng văn hay, đậu hương tiến nhưng thi mãi không đậu đại khoa; vì thế bỏ cử nghiệp về ở ẩn tại Thành Sơn, chuyên tâm chữa bệnh cứu người.

Link: https://baohatinh.vn/tieu-su-hai-thuong-lan-ong-le-huu-trac-post278784.html